[Nhà Dịch Học] Thiệu Ung, tự Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông, tức năm 1011 SCN, mất năm thứ 10 Tống Thần Tông, tức năm 1077 SCN, hưởng thọ 67 tuổi. Ông sinh ra tại Phạm Dương, Hà Bắc.
Đứng bên bờ sông Trường Giang, ngắm nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy về Đông, một đi không trở lại… 2.500 năm trước, Khổng Phu Tử cảm thán: “Thời gian như dòng nước! Trôi không quản ngày đêm”. 1.500 năm sau, Tô Đông Pha đứng trước cơn sóng lớn Trường Giang mà phiền muộn: “Sông lớn cuồn cuộn chảy về Đông, Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng”. Sông Trường Giang này, tưởng như vô tình. Mấy trăm năm, mấy nghìn năm, vẫn chảy xiết về phía trước không do dự. Đúng là nó đã đi theo dòng chảy suốt lịch sử nhân loại, chứng kiến tất cả thiện-ác, trung-gian, ái-hận, tình-sầu; biết bao vui buồn ly hợp, thế sự đổi thay. Vừa mới Hán Sở tranh hùng, đã tới Tam Quốc diễn nghĩa; rồi mới có Trinh Quán thịnh trị, sau đó là quý phi túy tửu; có Nhạc Phi tinh trung báo quốc, cũng có Tần Cối âm hiểm độc ác; có Thành Cát Tư Hãn xưng bá thiên hạ, cũng có ngày lễ của Hoàng đế Vĩnh Lạc triều Minh; thế mới có Khang Hy thịnh thế, sau đó là Nha Phiến quốc sỉ;…
Đứng bên bờ sông Trường Giang, ngắm nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy về Đông, một đi không trở lại… 2.500 năm trước, Khổng Phu Tử cảm thán: “Thời gian như dòng nước! Trôi không quản ngày đêm”. 1.500 năm sau, Tô Đông Pha đứng trước cơn sóng lớn Trường Giang mà phiền muộn: “Sông lớn cuồn cuộn chảy về Đông, Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng”. Sông Trường Giang này, tưởng như vô tình. Mấy trăm năm, mấy nghìn năm, vẫn chảy xiết về phía trước không do dự. Đúng là nó đã đi theo dòng chảy suốt lịch sử nhân loại, chứng kiến tất cả thiện-ác, trung-gian, ái-hận, tình-sầu; biết bao vui buồn ly hợp, thế sự đổi thay. Vừa mới Hán Sở tranh hùng, đã tới Tam Quốc diễn nghĩa; rồi mới có Trinh Quán thịnh trị, sau đó là quý phi túy tửu; có Nhạc Phi tinh trung báo quốc, cũng có Tần Cối âm hiểm độc ác; có Thành Cát Tư Hãn xưng bá thiên hạ, cũng có ngày lễ của Hoàng đế Vĩnh Lạc triều Minh; thế mới có Khang Hy thịnh thế, sau đó là Nha Phiến quốc sỉ;…
Lịch sử, nếu xem trong một thời-không ngưng đọng, thì cũng như một vở kịch, với trời làm màn, đất là đài, ngày đêm không ngừng xoay vần mà diễn biến. Các nhân vật trong vở kịch này, bất luận là anh hùng đội trời đạp đất, thét mây hô gió như thế nào, thì đều trôi dạt trong cõi hồng trần cuồn cuộn. Liệu ai có thể thực sự làm chủ vận mệnh của chính mình?
Tài năng kinh thiên động địa, tấm lòng cúc cung tận tụy như Gia Cát Lượng, cũng không thực hiện được chí lớn khôi phục Hán thất. Tài trí mưu lược, chí khí ngút trời như Nhạc Phi, cũng chỉ có thể để lại nỗi buồn vô hạn dưới đình Phong Ba. Thị phi thành bại theo dòng nước, Sừng sững cơ đồ bỗng tay không! Giữa dòng sông lớn lịch sử này, rốt cuộc là ai làm chủ? Dòng chảy lịch sử vĩ đại này rốt cuộc có chủ đề và kịch bản hay không?
Tuy nhiên, giữa cõi trần thế náo nhiệt ồn ã này, bỗng chốc vang lên một thanh âm siêu nhiên, âm lượng nhẹ nhàng mà kiên định; nó là âm thanh ngoài trần thế, chỉ điểm bến mê. Nó thời thời khắc khắc cảnh tỉnh thế nhân: Mang mang Thiên số đã sớm định trước, Thế Đạo hưng suy bất tự do vậy. Nó chính là một dự ngôn lưu danh thiên cổ. «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung thời Bắc Tống chính là một khúc thanh âm như vậy. Từ hơn 1.000 năm trước, nó đã chỉ điểm chỗ mê cho chúng sinh, giảng rõ khúc chủ đề nhấp nhô trầm bổng. Chúng ta hãy tĩnh tâm lắng nghe và thưởng thức bài thơ «Mai Hoa Thi» này.
Thiệu Ung - Thiệu Khang Tiết:
Để hiểu được «Mai Hoa Thi», thì không thể không tìm hiểu về kỳ nhân Thiệu Ung. Thiệu Ung, tự Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông, tức năm 1011 SCN, mất năm thứ 10 Tống Thần Tông, tức năm 1077 SCN, hưởng thọ 67 tuổi. Ông sinh ra tại Phạm Dương, Hà Bắc, sau theo cha di cư tới Cộng Thành, cuối đời ẩn cư tại Lạc Dương. Thiệu Ung, tuy không phải là “nhà nhà đều biết” như Gia Cát Khổng Minh, nhưng xét về tài năng và phẩm đức, thì cũng không thua gì Gia Cát Lượng. Chẳng qua, ông trường kỳ ẩn cư, tên tuổi không được người đời sau biết đến nhiều. Trình Hạo, một trong những ông tổ của Lý học triều Tống từng ca ngợi Thiệu Ung như sau: “Nghiêu Phu, ấy là bậc thầy về cái học của nội Thánh ngoại Vương vậy!”
Thuở thiếu thời, Thiệu Ung đã ôm ấp chí lớn, nỗ lực khắc khổ đọc sách, không có sách nào là chưa đọc. Theo “Thiệu Ung truyện” trong sử triều Tống thì: Thiệu Ung “ban đầu học, sau chịu đựng gian khổ, lạnh không có lò sưởi, nóng không có quạt mát, đêm tối cũng không có một tấm chiếu để nằm trong mấy năm”. Sau đó, để tăng cường kiến thức, ông còn du học tứ phương, vượt Hoàng Hà, qua Phần Hà, lội Hoài Thủy, vượt Hán Thủy, qua các đất Tề, Lỗ, Tống, Trịnh, v.v. Sau khi trở về, ông nói “Đạo là đây rồi”, sau đó không vân du nữa. Bấy giờ có cao nhân Lý Đỉnh Chi, thấy ông ham học không biết mệt mỏi, mới truyền thụ cho ông “Hà Đồ”, “Lạc Thư”, “Phục Hy Bát quái” và các bí quyết Dịch học khác.
Thiệu Ung thông minh tài trí, thông hiểu đạo lý, tự học tự đắc, cuối cùng trở thành một bậc thầy về Dịch học, một nhà Nho nổi tiếng xa gần. Ông hình thành cho mình một vũ trụ quan độc đáo mà hoàn chỉnh, các quy luật vận hóa của Thiên Địa, biến hóa của Âm Dương đều nắm trong lòng bàn tay. “Tống sử” cũng ghi lại như sau: Ông đối với “thế sự cổ kim xa gần, thậm chí tính nết của cây cỏ chim muông” thì đều có thể “thông suốt”, thậm chí “hiểu được suy nghĩ người khác, biết trước việc chưa xảy ra”. Trình Di, một ông tổ khác của Lý học Bắc Tống nói: Thiệu Ung “tấm lòng vừa trống vừa sáng, mà có thể biết tất cả”. Sau đó, Thiệu Ung viết các trước tác «Hoàng Cực kinh thế», «Quan vật nội ngoại thiên», v.v. tổng cộng hơn 1 vạn chữ.
Ông cho rằng lịch sử là chiểu theo định số mà diễn hóa. Ông dùng Tiên thiên Dịch số của mình, cũng như các khái niệm nguyên, hội, vận, thế, v.v. để suy luận diễn hóa của Trời Đất và tuần hoàn của lịch sử. Các tác phẩm Dịch học có ảnh hưởng rất lớn với đời sau như «Thiết Bản thần số», «Mai Hoa tâm dịch», đều là của Thiệu Ung. Người đời sau tôn xưng ông là “Thiệu Tử”. Thời trung niên, ông không màng danh lợi, ẩn cư tại Lạc Dương, viết sách dạy học. Các học sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Phú Bật, Tư Mã Quang, Lã Công Trứ, v.v. đều rất kính trọng ông. Họ từng góp tiền mua cho ông một khu vườn, gọi là “An Lạc Oa”, do vậy Thiệu Ung còn có tự hiệu là “An Lạc tiên sinh”.
Ông không chỉ thông hiểu cổ kim, tài năng cái thế, mà còn phẩm đức đôn hậu, đãi người chân thành. Điều này khiến ông nức danh xa gần, đi đâu cũng được người ta tranh nhau mời lưu lại, có người còn gọi nơi Thiệu Ung từng nghỉ lại là “Hành Oa”. Uy vọng của ông trong tâm người đời là rất lớn. Ngày nay, người hiểu rõ Thiệu Ung và các tác phẩm của ông quả thực là không nhiều. Tuy nhiên trong dân gian vẫn lưu truyền một số lời răn của ông. Ví như, người ta thường nói: “Nhất niên chi tế tại vu xuân, Nhất thiên chi tế tại vu thần, Nhất sinh chi tế tại vu cần” (Ranh giới một năm là mùa Xuân, Ranh giới một ngày là bình minh, Ranh giới một đời là chuyên cần), ấy là xuất phát từ Thiệu Ung.
Thiệu Ung còn có tài tiên tri tiên liệu, lưu lại hậu thế một dự ngôn chuẩn xác đến kinh người, một kiệt tác truyền đời của ông — «Mai Hoa Thi», tiên tri về những diễn biến lịch sử trọng đại phát sinh tại Trung Quốc sau khi ông mất. Tất nhiên, «Mai Hoa Thi» cũng như các dự ngôn khác, dùng ngôn ngữ rất kín đáo ẩn dụ, không dễ mà lý giải. Có một bộ phận, nếu như không phải là người tu luyện thông hiểu Phật lý Đạo học, thì khó mà hiểu được. Toàn bộ bài thơ có thể được chia làm 10 tiết nhỏ, sau đây chúng ta sẽ cùng nhau nghiên cứu:
Cổ Đại Thuật Số - Mai Hoa Thi
(一)
荡荡天门万古开,几人归去几人来。
山河虽好非完璧,不信黄金是祸胎。
Tiết 1
Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích,
Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.
Tạm dịch:
Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Hỏi mấy người đến mấy người trở về.
Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn,
Không tin Hoàng Kim là mầm tai họa.
(二)
湖山一梦事全非,再见云龙向北飞。
三百年来终一日,长天碧水叹弥弥。
Tiết 2
Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi,
Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi.
Tam bách niên lai chung nhất nhật,
Trường thiên bích thủy thán di di.
Tạm dịch:
Một giấc mộng Hồ Sơn mà hỏng cả,
Lại thấy Rồng Mây hướng phía Bắc bay.
Ba trăm năm hết chỉ nội một ngày,
Non xanh nước biếc than ôi còn đâu.
(三)
天地相乘数一原,忽逢甲子又兴元。
年华二八乾坤改,看尽残花总不言。
Tiết 3
Thiên địa tương thừa số nhất nguyên,
Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên.
Niên hoa nhị bát càn khôn cải,
Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn.
Tạm dịch:
Số nhân của Trời Đất đến một nguyên,
Hốt gặp giáp tử thì lại hưng Nguyên.
Được tám tám năm thì càn khôn đổi,
Xem hết hoa tàn mà vẫn không tâu.
(四)
毕竟英雄起布衣,朱门不是旧黄畿。
飞来燕子寻常事,开到李花春已非。
Tiết 4
Tất cánh anh hùng khởi bố y,
Phi lai yến tử tầm thường sự,
Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi.
Tạm dịch:
Rốt cuộc là anh hùng từ áo vải,
Lầu son đâu phải cờ vàng ngày xưa.
Chim én bay đến ấy chuyện tầm thường,
Nở tới hoa mận thì xuân đã qua.
(五)
胡儿骑马走长安,开辟中原海境宽。
洪水乍平洪水起,清光宜向汉中看。
Tiết 5
Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An,
Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan.
Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi,
Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán.
Tạm dịch:
Kỵ mã của trẻ Hồ tới Trường An,
Khai thác vùng hải cảng tại Trung Nguyên.
Hồng thủy bình rồi lại hồng thủy khởi,
Ánh sáng trong phải hướng Hán Trung xem.
(六)
汉天一白汉江秋,憔悴黄花总带愁。
吉曜半升箕斗隐,金乌起灭海山头。
Tiết 6
Hán thiên nhất bạch Hán giang thu,
Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu.
Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn,
Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu.
Tạm dịch:
Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu,
Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu.
Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn,
Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển.
(七)
云雾苍茫各一天,可怜西北起烽烟。
东来暴客西来盗,还有胡儿在眼前。
Tiết 7
Vân vụ thương mang các nhất thiên,
Khả liên Tây Bắc khởi phong yên.
Đông lai bạo khách Tây lai đạo,
Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền.
Tạm dịch:
Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm,
Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh.
Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây,
Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt.
(八)
如棋世事局初残,共济和衷却大难。
豹死犹留皮一袭,最佳秋色在长安。
Tiết 8
Như kỳ thế sự cục sơ tàn,
Cộng tề hòa trung khước đại nạn.
Báo tử do lưu bì nhất tập,
Tối giai thu sắc tại Trường An.
Tạm dịch:
Như ván cờ mới rơi vào thế tàn,
Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn,
Con báo chết còn lưu lại bộ da,
Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An.
(九)
火龙蛰起燕门秋,原璧应难赵氏收。
一院奇花春有主,连宵风雨不须愁。
Tiết 9
Hỏa long trập khởi Yên Môn thu,
Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu.
Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.
Tạm dịch:
Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn,
Nguyên bích chịu nạn, họ Triệu thu về,
Một vườn hoa đẹp, mùa xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm không phải ưu sầu.
(十)
数点梅花天地春,欲将剥复问前因。
寰中自有承平日,四海为家孰主宾。
Tiết 10
Số điểm mai hoa thiên địa xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.
Tạm dịch:
Số điểm hoa mai trời đất là xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa.
Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình,
Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách.
* * *
Lời bài hát:
(Hán Việt)
Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Du du thanh sử đa thiểu sự,
Bất tri nhân sinh thị hí đài.
Chân kim na phạ lô hỏa luyện,
Trọc thế nê lý đính thanh liên.
Mạn thiên phong tuyết ngạo chi mai,
Vi đắc chân Pháp nhẫn vạn thiên.
Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Na lai mai hoa phác tỵ hương.
Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.
Số điểm mai hoa thiên địa xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.
(Tạm dịch)
Từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Mấy người đến mấy người trở về?
Sử xanh đằng đẵng bao nhiêu chuyện,
Đâu biết nhân sinh là đài diễn.
Vàng thật nào sợ nung trong lửa,
Đóa sen tinh khiết giữa bùn dơ.
Khắp trời hoa mai ngạo sương tuyết,
Để đắc chân Pháp nhẫn vô bờ.
Không chịu một phen lạnh thấu xương,
Khó biết hoa mai tỏa mùi hương.
Một vườn hoa đẹp xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm chẳng sầu thương.
Số điểm hoa mai trời đất xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân.
Hưởng ngày thái bình khắp hoàn vũ,
Bốn biển là nhà ai chính-phụ.
(Hết)